Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

Hệ thông kênh rạch, mương máng, sông suối cũng chuyển màu vi ô nhiễm 2

ko chỉ ruộng, vườn ô nhiễm mà kênh rạch, mương máng, sông suối… ở 1 số vùng nông thôn cũng đổi màu bởi “ăn” đủ những chiếc chất thải chăn nuôi, để lại hệ lụy nguy hại cho môi trường và sức khỏe người dân.

Dẫn chúng tôi ra dòng suối phía trước rẫy, anh Nguyễn Thanh Phước, phố Hưng Lộc, thị xã hợp nhất (Đồng Nai) chỉ xuống loại nước đen kịt đang cuộn chảy, bức xúc nói: “Ngày xưa các con suối này nước trong vắt, cá tôm phổ biến lắm, trẻ em còn lội xuống tắm rửa. Vậy mà hiện tại, suối đã đổi màu đen kịt, chỉ cần nhúng thủ công xuống thì ngứa không chịu nổi. Thậm chí, nước ngầm hiện nay cũng ô nhiễm nặng vì nước thải chăn nuôi heo ngấm xuống, chẳng ai dám tưới cây nữa”.

15-13-38_nh_1
Chất thải chăn nuôi xả thẳng xuống mương, suối gây ô nhiễm nặng

Ngược mẫu suối, chúng tôi thấy phía xa là những dãy chuồng nuôi heo, mùi phân heo bốc lên chẳng thể chịu nổi. Tôi hỏi: "Thế cuối nguồn con suối này chảy về đâu?". Anh Phước bảo: "Tất cả sẽ đổ về con thác đang được khiến du hý sinh thái, chỉ bí quyết đây hơn chục km". Tôi nghe xong rợn cả người lúc nghĩ đến đến chiếc thác sinh thái đang sở hữu các đoàn du khách tới nghỉ dưỡng, tắm táp và hóng mát.

Theo người dân trồng rẫy nói quanh đây, sau các trận mưa nước suối còn đỡ đen và ít mùi. Gặp trời nắng hot thì ko khí đặc quánh mùi phân heo, giả dụ ai mới tới sẽ chẳng thở nổi. Chỉ vào những gốc cà phê lá đang héo dần, anh Phước bụm mũi: “Chỉ ít bữa nữa thôi, những cây cà phê này sẽ chết đứng vì nước thải trại heo chảy ngập gốc. Vườn ca cao nhà tôi đã chết mấy chục gốc cũng chỉ vì “uống” phải nước độc này, nhưng biết bắt đền ai”.

15-13-38_nh_3_1
Nguồn nước ngầm đen đặc, bốc mùi phân heo

Ông Tâm, 1 thợ xây đang làm cho nhà dân quanh đó cũng chia sẻ: “Chúng tôi đi đến đâu cũng gặp cảnh nước phân thải ra khắp các dòng kênh, suối, mùi hôi thối xộc thẳng vào mũi rất khó chịu. Thậm chí nước thải trong khoảng những chuồng nuôi heo còn tràn cả lên vườn rẫy, xót gốc chẳng với cây gì sống được”.

Còn bà Lê Thị Phương ở xã Gia Tân 1, thị xã thống nhất rầu rĩ: “Trước đây, gia đình tôi thường lấy nước trong khoảng suối tưới cho rau, nhưng tính từ lúc chăn nuôi vững mạnh, chất thải đổ ra suối đa dạng khiến nước rất bẩn không dám lấy tưới cho rau nữa. Suốt đêm ngày phải ngửi mùi phân heo hôi thối, người dân mắc bệnh về các con phố hô hấp hết cả rồi!”.

Theo Nhận định, tình trạng ô nhiễm vì chất thải chăn nuôi đã kể từ đa dạng năm qua, ko chỉ ở huyện thống nhất mà còn ở rộng rãi địa phương có đàn heo lớn mạnh như những huyện Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu, Trảng Bom...

15-13-38_nh_4
các loại nước thải chăn nuôi gây ô nhiễm nặng

Ngoài bị những trang trại chăn nuôi tấn công, phổ thông kênh rạch, sông suối tại Đồng Nai còn bị ô nhiễm bởi phổ thông tác nhân khác. Bà è cổ Thị Lan ở phố Giang Điền, thị xã Trảng Bom cho biết: “Thật nguy hiểm khi phổ biến nông dân vừa phun lép thuốc trừ sâu xong liền xúc rửa bình rồi vô tư đổ thẳng xuống kênh, suối chẳng cần biết hậu quả thế nào”.

phổ thông nơi do nuôi trồng thủy sản ồ ạt, ko tuân theo quy trình kỹ thuật cũng đã gây ô nhiễm nặng nguồn nước. Thậm chí, việc người nuôi thủy sản lạm dụng các mẫu hóa chất và tiêu dùng ko đúng phương pháp cũng làm chất độc hại tồn dư trong sản phẩm và môi trường.

đàm luận với NNVN, ông Huỳnh Thành Vinh, GĐ Sở NN-PTNT tỉnh giấc Đồng Nai cho biết: “Thực tế việc quy hoạch những vùng chăn nuôi tập trung và thực trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi đang hơi nan giải, ngành nghề nông nghiệp 1 mình xử lý ko xong. Mang những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, việc xả thải gây ô nhiễm rất khó kiểm soát”.

Theo ông Vinh, việc quy hoạch các vùng chăn nuôi quy tụ cho tới hiện tại được khoảng 10 năm, nhưng mới chỉ có 655/3.350 trang trại chăn nuôi đã di dời vào khu chăn nuôi hội tụ. Cho nên, việc điều hành xả thải còn những bất cập, khiến cho ô nhiễm môi trường vùng nông thôn hơi phức tạp.

15-13-38_nh_7
ngành chức năng kiểm tra trại chăn nuôi xả thải trực tiếp ra môi trường
15-13-38_nh_8
những gốc cà phê đang héo chất vì ngập nước thải
Theo Sở TN-MT Đồng Nai, tỉnh này hiện với 166 hạ tầng chăn nuôi to và 46 nghìn cơ sở nhỏ lẻ. Do Đồng Nai có quy mô chăn nuôi đứng đầu cả nước, nhất là đàn heo nên lượng chất thải chăn nuôi phát sinh sẽ ảnh hưởng rất to tới môi trường.
MINH SÁNG

Hệ thông kênh rạch, mương máng, sông suối cũng chuyển màu vi ô nhiễm 2

ko chỉ ruộng, vườn ô nhiễm mà kênh rạch, mương máng, sông suối… ở 1 số vùng nông thôn cũng đổi màu bởi “ăn” đủ những chiếc chất thải chăn nuôi, để lại hệ lụy nguy hại cho môi trường và sức khỏe người dân.

Dẫn chúng tôi ra dòng suối phía trước rẫy, anh Nguyễn Thanh Phước, phố Hưng Lộc, thị xã hợp nhất (Đồng Nai) chỉ xuống loại nước đen kịt đang cuộn chảy, bức xúc nói: “Ngày xưa các con suối này nước trong vắt, cá tôm phổ biến lắm, trẻ em còn lội xuống tắm rửa. Vậy mà hiện tại, suối đã đổi màu đen kịt, chỉ cần nhúng thủ công xuống thì ngứa không chịu nổi. Thậm chí, nước ngầm hiện nay cũng ô nhiễm nặng vì nước thải chăn nuôi heo ngấm xuống, chẳng ai dám tưới cây nữa”.

15-13-38_nh_1
Chất thải chăn nuôi xả thẳng xuống mương, suối gây ô nhiễm nặng

Ngược mẫu suối, chúng tôi thấy phía xa là những dãy chuồng nuôi heo, mùi phân heo bốc lên chẳng thể chịu nổi. Tôi hỏi: "Thế cuối nguồn con suối này chảy về đâu?". Anh Phước bảo: "Tất cả sẽ đổ về con thác đang được khiến du hý sinh thái, chỉ bí quyết đây hơn chục km". Tôi nghe xong rợn cả người lúc nghĩ đến đến chiếc thác sinh thái đang sở hữu các đoàn du khách tới nghỉ dưỡng, tắm táp và hóng mát.

Theo người dân trồng rẫy nói quanh đây, sau các trận mưa nước suối còn đỡ đen và ít mùi. Gặp trời nắng hot thì ko khí đặc quánh mùi phân heo, giả dụ ai mới tới sẽ chẳng thở nổi. Chỉ vào những gốc cà phê lá đang héo dần, anh Phước bụm mũi: “Chỉ ít bữa nữa thôi, những cây cà phê này sẽ chết đứng vì nước thải trại heo chảy ngập gốc. Vườn ca cao nhà tôi đã chết mấy chục gốc cũng chỉ vì “uống” phải nước độc này, nhưng biết bắt đền ai”.

15-13-38_nh_3_1
Nguồn nước ngầm đen đặc, bốc mùi phân heo

Ông Tâm, 1 thợ xây đang làm cho nhà dân quanh đó cũng chia sẻ: “Chúng tôi đi đến đâu cũng gặp cảnh nước phân thải ra khắp các dòng kênh, suối, mùi hôi thối xộc thẳng vào mũi rất khó chịu. Thậm chí nước thải trong khoảng những chuồng nuôi heo còn tràn cả lên vườn rẫy, xót gốc chẳng với cây gì sống được”.

Còn bà Lê Thị Phương ở xã Gia Tân 1, thị xã thống nhất rầu rĩ: “Trước đây, gia đình tôi thường lấy nước trong khoảng suối tưới cho rau, nhưng tính từ lúc chăn nuôi vững mạnh, chất thải đổ ra suối đa dạng khiến nước rất bẩn không dám lấy tưới cho rau nữa. Suốt đêm ngày phải ngửi mùi phân heo hôi thối, người dân mắc bệnh về các con phố hô hấp hết cả rồi!”.

Theo Nhận định, tình trạng ô nhiễm vì chất thải chăn nuôi đã kể từ đa dạng năm qua, ko chỉ ở huyện thống nhất mà còn ở rộng rãi địa phương có đàn heo lớn mạnh như những huyện Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu, Trảng Bom...

15-13-38_nh_4
các loại nước thải chăn nuôi gây ô nhiễm nặng

Ngoài bị những trang trại chăn nuôi tấn công, phổ thông kênh rạch, sông suối tại Đồng Nai còn bị ô nhiễm bởi phổ thông tác nhân khác. Bà è cổ Thị Lan ở phố Giang Điền, thị xã Trảng Bom cho biết: “Thật nguy hiểm khi phổ biến nông dân vừa phun lép thuốc trừ sâu xong liền xúc rửa bình rồi vô tư đổ thẳng xuống kênh, suối chẳng cần biết hậu quả thế nào”.

phổ thông nơi do nuôi trồng thủy sản ồ ạt, ko tuân theo quy trình kỹ thuật cũng đã gây ô nhiễm nặng nguồn nước. Thậm chí, việc người nuôi thủy sản lạm dụng các mẫu hóa chất và tiêu dùng ko đúng phương pháp cũng làm chất độc hại tồn dư trong sản phẩm và môi trường.

đàm luận với NNVN, ông Huỳnh Thành Vinh, GĐ Sở NN-PTNT tỉnh giấc Đồng Nai cho biết: “Thực tế việc quy hoạch những vùng chăn nuôi tập trung và thực trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi đang hơi nan giải, ngành nghề nông nghiệp 1 mình xử lý ko xong. Mang những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, việc xả thải gây ô nhiễm rất khó kiểm soát”.

Theo ông Vinh, việc quy hoạch các vùng chăn nuôi quy tụ cho tới hiện tại được khoảng 10 năm, nhưng mới chỉ có 655/3.350 trang trại chăn nuôi đã di dời vào khu chăn nuôi hội tụ. Cho nên, việc điều hành xả thải còn những bất cập, khiến cho ô nhiễm môi trường vùng nông thôn hơi phức tạp.

15-13-38_nh_7
ngành chức năng kiểm tra trại chăn nuôi xả thải trực tiếp ra môi trường
15-13-38_nh_8
những gốc cà phê đang héo chất vì ngập nước thải
Theo Sở TN-MT Đồng Nai, tỉnh này hiện với 166 hạ tầng chăn nuôi to và 46 nghìn cơ sở nhỏ lẻ. Do Đồng Nai có quy mô chăn nuôi đứng đầu cả nước, nhất là đàn heo nên lượng chất thải chăn nuôi phát sinh sẽ ảnh hưởng rất to tới môi trường.
MINH SÁNG

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2018

Xử lý nước thải chăn nuôi [phần 5] công nghệ hóa lý kết hợp MBR 21

nối tiếp chuỗi bài viết về công nghệ xử lý nước thải chăn nuôi heo, SACOTEC xin cung cấp công nghệ hóa lý + MBR, đây là công nghệ chỉ để tham khảo do không mang tính áp dụng cao trong nước thải chăn nuôi heo, vì chi phí đầu cơ và bảo trì cao.

đặc biệt quan trọng nhất của nước thải phát sinh từ những trang trại chăn nuôi, đặc thù là chăn nuôi lợn là Hàm lượng những chất hữu cơ, chất dinh dưỡng được biểu lộ qua các thông số như: COD, BOD5, TN, TP, SS…những thông số này là xuất xứ gây ô nhiễm môi trường chính. Đây là các thành phần dễ phân hủy, gây mùi hôi thối, phát sinh khí độc, làm sụt giảm lượng ôxy hòa tan trong nước và đặc trưng nếu ko được xử lý khi thải ra nguồn kết nạp sẽ gây ô nhiễm môi trường, gây phì dưỡng hệ sinh thái, làm ảnh hưởng tới cây trồng và là nguồn dinh dưỡng quan yếu để các vi khuẩn gây hại tăng trưởng. Tuy nhiên trong nước thải của nông trại chăn nuôi heo mang đựng hàm lượng lớn các vi khuẩn gây bệnh dịch, đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của con người cũng như động vật trong khu vực.

Trong các khu nông trại chăn nuôi lợn việc thu dọn phân chuồng bằng nước được dùng nhiều tạo ra 1 khối lượng nước thải tương đối to. Trong nước thải hợp chất hữu cơ chiếm 70-80% gồm cellulose, protit, acid amin, chất béo, hidrat carbon và những dẫn xuất của chúng với trong phân và thức ăn thừa. Hầu hết các chất hữu cơ dễ phân hủy, những chất vô cơ chiếm 20-30% gồm cát, đất, muối, urê, amonium, muối, chlorua, SO42-… những hợp chất hóa học trong phân và nước thải dễ dàng bị phân hủy, đặc trưng ô nhiễm được biểu thị cụ thể trong bảng sau:

Stt mục tiêu Tìm hiểu đơn vị

Kết quả

 

QCVN 62:2016/BTNMT (Cột B)
1. pH 6,5 5,5 – 9
hai. COD mg/l 2100 100
3. BOD5(200C) mg/l 1000 50
4. Chất rắn lửng lơ mg/l 200 100
5. Tổng N mg/l 600 30
6. Tổng P mg/l 40 6
7. Coliform * MPN/100ml 110.000 5000

 

Thuyết minh quy trình xử lý nước thải chăn nuôi heo

Nước thải từ trại chăn nuôi heo đươc dẫn vào hố thu lượm. Sau ấy nước thải tự chảy vào hầm biogas, tất cả trong nước thải chăn nuôi cất những hợp chất hữu cơ dễ phân hủy sinh vật học .Vì vậy, nước thải sau lúc qua biogas mang thể loại bỏ được khoảng 60% COD, 80% cặn lơ lửng.

Nước thải trại heo sau biogas được dẫn vào bể lắng sơ cấp. Nước thải sau lúc qua bể lắng, các hợp chất hữu cơ, cặn có kích thước to sẽ được giữ lại tại bể lắng, mục đích của việc kiểu dáng thêm bể lắng nhằm đảm bảo được sự hoạt động ổn định của các vật dụng phía sau.

Nước được dẫn tới bể điều hòa kết hợp có máy sục khí nhằm làm cho giảm được một phần khí metan NH3 được tạo ra trong giai đoạn kị khí , xáo trộn hoàn toàn nước thải tránh trạng thái bị lắng cặn , ổn định được lưu lượng, chất lượng nước . Do nồng độ COD, BOD trong nước thải chăn nuôi tại từng thời khắc không ổn định, nên nước thải cần đưa vào bể điều hòa

Nước thải sau bể điều hòa được đưa vào cụm bể keo tụ tạo bông. Tại bể keo tụ tạo bông , châm hóa chất polymer và PAC tăng hiệu quả xử lí BOD,COD . Cụm bể hóa lí gồm 3 ngăn keo tụ +tạo bông+lắng , hóa chất sẽ được châm vào ngăn thứ nhất keo tụ , ở ngăn này nước thải sẽ được khuấy trộn đều có hóa chất , thời kì khuấy trộn xảy ra ngắn nhất và tốc độ khuấy nhanh nhất trong 3 ngăn. Sau ấy sẽ được qua ngăn 2 : tạo bông . Hóa chất tiếp diễn châm , giảm tốc độ khuấy và thời kì khuấy. Khi này sẽ hình thành các bông cặn to nên giảm tốc độ khuấy vì dễ khiến vỡ lẽ bông cặn . Nước được chảy qua ngăn 3: Lắng , tại đây các bông cặn sẽ lắng phần nước trong được dẫn tới bể anoxic, còn phần bông cặn sẽ được dẫn tới bể đựng bùn.

Việc bề ngoài bể anoxic đặt trước MBR là vì trong quá trình xử lí không cần phải bổ sung thêm chất hữu cơ giúp thời kỳ xử lý nito trong nước thải rẻ hơn, ít phải bổ sung nguồn C bên ngoài. Nước thải từ bể lắng hóa lý sẽ tự chảy về bể anoxic

Bể thiếu khí Anoxic

giai đoạn giận dữ nitrat

NH3 NO3 NO2 NO N2O N2(GAS)

Qúa trình giận dữ phôtphorit

PO4-3 Microorganism (PO4-3) Salt => sludge

Nước thải sẽ được dẫn tới bể MBR. Với cơ chế màng vi lọc MBR dạng tấm phẳng, kích thước lỗ màng MBR siêu nhỏ 0.01-0.2 mm. Nước thải sau quá trình sinh vật học thấm qua màng. Bùn và vi sinh vật gây hại như ( Coliform, Ecoli…) sẽ được giữ lại, chỉ có nước thấm qua. Hệ thống sử dụng kỹ thuật màng MBR dùng mật độ bùn vi sinh ( MLSS) cao hơn => giảm thể tích bể sinh học, nâng cao hiệu quả xử lí, giảm sốc tải .

Sau đấy nước thải sẽ được dẫn tới hồ sinh học lợi dụng giai đoạn tự làm cho sạch của nguồn tiếp thu nước thải. Lượng oxy cho giai đoạn sinh hóa cốt yếu là do không khí thâm nhập qua mặt thoáng của hồ và do công đoạn quang hợp của thực vật nước.

Hệ động thực vật của hồ sinh học thường mang các vi sinh vật: vi sinh vật, nguyên sinh động vật, tảo, rêu, bèo… các vi sinh vật trong hồ là những vi sinh vật kỵ khí, yếm khí, hiếu khí hay tuỳ tiện thể như interobacterium, streptococus, clostridium, achromobacter, cytophaga, micrococus, pseu-domonas, bacillus, lactobacillus…

Thực vật trong hồ sinh vật học dùng những dinh dưỡng ( N,P), kim loại nặng (Cu, Cd, Zn..) đê phát triển sinh khối. Song song trong hồ sinh vật học, thì các vi khuẩn luôn tiến hóa, thích ứng cao trong từng cái nước thải. Vì vậy ở các điều kiện khác nhau thì những nhóm thủy vật, thủy sinh sẽ được hình thành khác nhau. Tuy nhiên chỉ sở hữu 1 số những thuộc tính phù hợp cho việc xử lý môi trường nước ô nhiễm.

hiện nay tại hồ sinh vật học, người ta thường tiêu dùng bèo tây, rau muống để xử lý nước thải. Ngoài ra điều sai trái lớn nhất trong việc xử lý là đề lục bình (bèo tây), rau muống mọc che kín phần lớn mặt hồ. Trong công đoạn xử lý, thì việc cung ứng oxi cho thực vật, vi khuẩn với lợi là khôn cùng quan trọng, chính thành ra, việc che kín mặt hồ làm giảm đi lượng oxy sản xuất cần yếu. SACOTEC khuyến nghị mật độ che phủ mặt hồ rơi vào 25-50% tùy điều kiện thực tại.

Bùn sinh ra trong quá trình xử lí sẽ được thải bỏ về bể đựng bùn. Bể đựng bùn sở hữu nhiệm vụ lắng bùn, tách bùn với nước. Bùn sau lúc tách nước sẽ được bơm hút định kì để xử lí

Nhận định kỹ thuật xử lý nước thải chăn nuôi.

Ưu điểm:

– tầm giá vận hành thấp

– Tiết kiệm được chi phí vun đắp cụm bể Lắng-Trung gian-Lọc-Khử trùng

– thuận lợi kiểm soát lượng DO

– nâng cao hiệu quả xử lý sinh vật học 10-30% do MLSS nâng cao 2-3 lần so mang Aerotank truyền thống.

– Giảm được triệt để SS và BOD .Hiệu suất xử lý của MBR tính theo COD, BOD đạt khoảng 90-95%

Khuyết điểm:

  • bên cạnh đó do hàm lượng cặn quá to nên thường xuyên gây nghẽn bề mặt màng lọc khiến cho mất phổ thông thời gian và công sức để vệ sinh màng lọc , khoảng 3-4h phải vệ sinh màng lọc. Vì vậy màng lọc nhanh hư hỏng gây tốn kém lúc phải thay thế thường xuyên.
  • Hàm lượng BOD,COD quá cao , xử lí không triệt để. Gây sốc tải và khiến cho ngộ độc cho vi sinh chỉ mất khoảng dài.
  • Người vận hành thiết yếu kiến thức chuyên môn để nắm rõ quy trình xử lý và vận hành cho MLSS nâng cao nhanh và liên tục.

Kết luận

sở hữu thứ tự kỹ thuật trên, SACOTEC khuyến cáo ko nên dùng công nghệ này vì giá thành cao, vận hành khó,chi phí nhân lực cao, tầm giá bảo trì cao, gây ngộ độc cho vi sinh và vấn đề bảo trì thiết bị không được đảm bảo.

Xử lý nước thải chăn nuôi [phần 5] kỹ thuật hóa lý hài hòa MBR 20

tiếp nối chuỗi bài viết về công nghệ xử lý nước thải chăn nuôi heo, SACOTEC xin cung cấp công nghệ hóa lý + MBR, đây là kỹ thuật chỉ để tham khảo do ko sở hữu tính ứng dụng cao trong nước thải chăn nuôi heo, vì chi phí đầu cơ và bảo trì cao.

đặc biệt quan yếu nhất của nước thải nảy sinh từ những nông trại chăn nuôi, đặc thù là chăn nuôi lợn là Hàm lượng những chất hữu cơ, chất dinh dưỡng được diễn đạt qua những tham số như: COD, BOD5, TN, TP, SS…những tham số này là nguồn cội gây ô nhiễm môi trường chính. Đây là các thành phần dễ phân hủy, gây mùi hôi thối, phát sinh khí độc, khiến cho sụt giảm lượng ôxy hòa tan trong nước và đặc biệt nếu ko được xử lý khi thải ra nguồn hấp thu sẽ gây ô nhiễm môi trường, gây phì dưỡng hệ sinh thái, khiến ảnh hưởng đến cây trồng và là nguồn dinh dưỡng quan yếu để những vi khuẩn gây hại tăng trưởng. Không những thế trong nước thải của nông trại chăn nuôi heo sở hữu cất hàm lượng lớn các vi khuẩn gây bệnh dịch, đây là yếu tố tác động trực tiếp đến sức khỏe của con người cũng như động vật trong khu vực.

Trong những khu nông trại chăn nuôi lợn việc thu vén phân chuồng bằng nước được dùng đa dạng tạo ra 1 khối lượng nước thải khá lớn. Trong nước thải hợp chất hữu cơ chiếm 70-80% gồm cellulose, protit, acid amin, chất béo, hidrat carbon và các dẫn xuất của chúng sở hữu trong phân và thức ăn thừa. Rất nhiều các chất hữu cơ dễ phân hủy, các chất vô sinh chiếm 20-30% gồm cát, đất, muối, urê, amonium, muối, chlorua, SO42-… những hợp chất hóa học trong phân và nước thải tiện lợi bị phân hủy, đặc thù ô nhiễm được biểu lộ cụ thể trong bảng sau:

Stt mục tiêu Tìm hiểu đơn vị

Kết quả

 

QCVN 62:2016/BTNMT (Cột B)
một. pH 6,5 5,5 – 9
hai. COD mg/l 2100 100
3. BOD5(200C) mg/l 1000 50
4. Chất rắn lửng lơ mg/l 200 100
5. Tổng N mg/l 600 30
6. Tổng P mg/l 40 6
7. Coliform * MPN/100ml 110.000 5000

 

Thuyết minh quy trình xử lý nước thải chăn nuôi heo

Nước thải trong khoảng trại chăn nuôi heo đươc dẫn vào hố lượm lặt. Sau đấy nước thải tự chảy vào hầm biogas, phần lớn trong nước thải chăn nuôi đựng những hợp chất hữu cơ dễ phân hủy sinh vật học .Vì vậy, nước thải sau khi qua biogas với thể loại bỏ được khoảng 60% COD, 80% cặn lửng lơ.

Nước thải trại heo sau biogas được dẫn vào bể lắng sơ cấp. Nước thải sau khi qua bể lắng, các hợp chất hữu cơ, cặn với kích thước lớn sẽ được giữ lại tại bể lắng, mục đích của việc ngoài mặt thêm bể lắng nhằm đảm bảo được sự hoạt động ổn định của các vật dụng phía sau.

Nước được dẫn tới bể điều hòa hài hòa có máy sục khí nhằm làm cho giảm được một phần khí metan NH3 được tạo ra trong quá trình kị khí , xáo trộn hoàn toàn nước thải hạn chế trạng thái bị lắng cặn , ổn định được lưu lượng, chất lượng nước . Do nồng độ COD, BOD trong nước thải chăn nuôi tại từng thời khắc ko ổn định, nên nước thải cần đưa vào bể điều hòa

Nước thải sau bể điều hòa được đưa vào cụm bể keo tụ tạo bông. Tại bể keo tụ tạo bông , châm hóa chất polymer và PAC nâng cao hiệu quả xử lí BOD,COD . Cụm bể hóa lí gồm 3 ngăn keo tụ +tạo bông+lắng , hóa chất sẽ được châm vào ngăn thứ nhất keo tụ , ở ngăn này nước thải sẽ được khuấy trộn đều sở hữu hóa chất , thời gian khuấy trộn xảy ra ngắn nhất và tốc độ khuấy nhanh nhất trong 3 ngăn. Sau đó sẽ được qua ngăn hai : tạo bông . Hóa chất tiếp diễn châm , giảm tốc độ khuấy và thời gian khuấy. Khi này sẽ hình thành những bông cặn to nên giảm tốc độ khuấy vì dễ làm cho vỡ bông cặn . Nước được chảy qua ngăn 3: Lắng , tại đây những bông cặn sẽ lắng phần nước trong được dẫn tới bể anoxic, còn phần bông cặn sẽ được dẫn đến bể đựng bùn.

Việc bề ngoài bể anoxic đặt trước MBR là vì trong thời kỳ xử lí không cần phải bổ sung thêm chất hữu cơ giúp quá trình xử lý nito trong nước thải phải chăng hơn, ít phải bổ sung nguồn C bên ngoài. Nước thải từ bể lắng hóa lý sẽ tự chảy về bể anoxic

Bể thiếu khí Anoxic

quá trình giận dữ nitrat

NH3 NO3 NO2 NO N2O N2(GAS)

Qúa trình bức xúc phôtphorit

PO4-3 Microorganism (PO4-3) Salt => sludge

Nước thải sẽ được dẫn đến bể MBR. Mang cơ chế màng vi lọc MBR dạng tấm phẳng, kích thước lỗ màng MBR siêu nhỏ 0.01-0.2 mm. Nước thải sau giai đoạn sinh học thấm qua màng. Bùn và vi sinh vật gây hại như ( Coliform, Ecoli…) sẽ được giữ lại, chỉ sở hữu nước thấm qua. Hệ thống sử dụng công nghệ màng MBR tiêu dùng mật độ bùn vi sinh ( MLSS) cao hơn => giảm thể tích bể sinh học, tăng hiệu quả xử lí, giảm sốc chuyên chở .

Sau ấy nước thải sẽ được dẫn tới hồ sinh vật học lợi dụng thời kỳ tự làm sạch của nguồn thu nạp nước thải. Lượng oxy cho giai đoạn sinh hóa cốt yếu là do ko khí xâm nhập qua mặt thoáng của hồ và do giai đoạn quang đãng hợp của thực vật nước.

Hệ động thực vật của hồ sinh vật học thường với các vi sinh vật: vi sinh vật, nguyên sinh động vật, tảo, rêu, bèo… những vi sinh vật trong hồ là những vi sinh vật kỵ khí, yếm khí, hiếu khí hay tuỳ nhân thể như interobacterium, streptococus, clostridium, achromobacter, cytophaga, micrococus, pseu-domonas, bacillus, lactobacillus…

Thực vật trong hồ sinh học dùng những dinh dưỡng ( N,P), kim khí nặng (Cu, Cd, Zn..) đê vững mạnh sinh khối. Đồng thời trong hồ sinh học, thì các vi khuẩn luôn tiến hóa, thích nghi cao trong từng chiếc nước thải. Vì vậy ở những điều kiện khác nhau thì các nhóm thủy vật, thủy sinh sẽ được hình thành khác nhau. Bên cạnh đó chỉ có 1 số các tính chất phù hợp cho việc xử lý môi trường nước ô nhiễm.

hiện tại tại hồ sinh học, người ta thường tiêu dùng bèo tây, rau muống để xử lý nước thải. Tuy nhiên điều sai trái to nhất trong việc xử lý là đề lục bình (bèo tây), rau muống mọc che kín phần lớn mặt hồ. Trong quá trình xử lý, thì việc phân phối oxi cho thực vật, vi khuẩn sở hữu lợi là cực kỳ quan trọng, chính bởi thế, việc che kín mặt hồ khiến cho giảm đi lượng oxy sản xuất thiết yếu. SACOTEC khuyến nghị mật độ che phủ mặt hồ rơi vào 25-50% tùy điều kiện thực tế.

Bùn sinh ra trong quá trình xử lí sẽ được thải bỏ về bể cất bùn. Bể đựng bùn có nhiệm vụ lắng bùn, tách bùn mang nước. Bùn sau lúc tách nước sẽ được bơm hút định kì để xử lí

Tìm hiểu công nghệ xử lý nước thải chăn nuôi.

Ưu điểm:

– tầm giá vận hành rẻ

– Tiết kiệm được giá tiền xây dựng cụm bể Lắng-Trung gian-Lọc-Khử trùng

– tiện dụng kiểm soát lượng DO

– nâng cao hiệu quả xử lý sinh vật học 10-30% do MLSS tăng 2-3 lần so sở hữu Aerotank truyền thống.

– Giảm được triệt để SS và BOD .Hiệu suất xử lý của MBR tính theo COD, BOD đạt khoảng 90-95%

Khuyết điểm:

  • không những thế do hàm lượng cặn quá lớn nên thường xuyên gây nghẽn bề mặt màng lọc khiến mất phổ thông thời kì và công sức để vệ sinh màng lọc , khoảng 3-4h phải vệ sinh màng lọc. Vì vậy màng lọc nhanh hư hỏng gây tốn kém lúc phải thay thế thường xuyên.
  • Hàm lượng BOD,COD quá cao , xử lí ko triệt để. Gây sốc vận chuyển và khiến ngộ độc cho vi sinh trong thời gian dài.
  • Người vận hành thiết yếu tri thức chuyên môn để nắm rõ thứ tự xử lý và vận hành cho MLSS nâng cao nhanh và liên tục.

Kết luận

có thứ tự công nghệ trên, SACOTEC khuyến cáo ko nên tiêu dùng công nghệ này vì giá tiền cao, vận hành khó,chi phí nhân lực cao, tầm giá bảo trì cao, gây ngộ độc cho vi sinh và vấn đề bảo trì vật dụng ko được đảm bảo.